Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014


Không ai có thể phủ nhận thị trường âm nhạc Nhật Bản là một ông lớn trong nền âm nhạc thế giới.
Với tỉ lệ chia sẻ âm nhạc đứng thứ hai chỉ sau Mỹ, J-pop vẫn luôn là một tượng đài lớn, một nền âm nhạc mà chỉ cần đặt chân được vào đã là một vinh dự. Không những thế,  dù thị trường nhạc có lớn đến đâu, người Nhật vẫn coi chất lượng âm nhạc là yếu tố tiên quyết khi chọn mua sản phẩm. Điều này đương nhiên là tốt, nó giúp chất lượng âm nhạc J-pop luôn giữ vững phong độ ổn định, đồng thời càng kích thích các nghệ sĩ tạo ra nhiều sản phẩm âm nhạc sáng tạo và nghệ thuật hơn.
Tuy nhiên, điều gì cũng có mặt trái của nó. Để bù lại chất lượng âm nhạc tuyệt vời ấy, các nghệ sĩ đã phải đánh đổi một thứ rất quan trọng: chất giọng của mình.

Những căn bệnh về thanh quản

Có thể nói, đối với J-pop, tỉ lệ những nghệ sĩ mắc phải các bệnh về thanh quản, hay liên quan đến tai, mũi, họng, phổi không phải quá nhiều, nhưng cũng vừa đủ để chúng ta bất ngờ.
Đầu tiên phải kể đến trường hợp của nữ diva nhạc pop Hamasaki Ayumi.  Cô là một diva tài năng của nền âm nhạc Nhật Bản, với giọng hát trong trẻo trời phú và vũ đạo uyển chuyển, bốc lửa. Tuy vậy, với những ai mới tìm hiểu nhạc Nhật, có thể sẽ không biết rằng tai trái của Ayumi đã hoàn toàn mất đi thính giác và vô phương cứu chữa. Đây là kết quả của những tháng năm luyện tập miệt mài không ngừng nghỉ. Dù thế, Ayumi vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình, cô luôn cố gắng hết sức để cống hiến cho khán giả những màn trình diễn ấn tượng và hoàn hảo nhất.
J-pop artist , cái giá phải trả cho sự thành công
Hamasaki Ayumi – nữ hoàng nhạc J-pop
Một nữ ca sĩ nổi tiếng khác, Mika Nakashima, cũng mắc một căn bệnh tương tự như Ayu. Chỉ cần so sánh hai bản live của Mika vào 2 năm 2005 và 2012 là có thể thấy rõ sự khác biệt. Giọng Mika năm 2005 trầm, tinh tế, nhiều nội lực bao nhiêu thì năm 2012, giọng cô yếu đi bấy nhiêu và không thể lên cao được. Chính căn bệnh về tai đã dẫn đến sự thay đổi này vì lúc hát, càng lên cao thì tai sẽ càng đau.

Ca sĩ trẻ Ayaka từng công bố mình bị mắc bệnh Bướu cường giáp ( một loại bệnh về họng? :? ) vào năm 2009. Xét đến dòng nhạc sử dụng nhiều kĩ thuật mà cô đang theo đuổi, sự việc này có lẽ cũng không quá bất ngờ. Sau đó, cô quyết định tạm ngưng các hoạt động âm nhạc một thời gian để tập trung chữa bệnh, và quay trở lại ngoạn mục vào năm 2012 với album “ Hajimari no toki “ . May mắn là chất giọng của cô vẫn như xưa.
Mikazuki – Ayaka live

Thật may mắn là Ayaka đã khỏi bệnh, thật đáng tiếc nếu mất đi một giọng hát tuyệt đẹp như này phải không?
 

Nguyên nhân

Vậy nguyên nhân dẫn đến những căn bệnh trên là do đâu. Theo ý kiến chủ quan của ad thì có khá nhiều nguyên do cho những vụ việc trên.
Thứ nhất, đó là yêu cầu khắt khe của thị trường âm nhạc Nhật Bản. Với một thị trường lớn như Nhật Bản, nếu một nghệ sĩ không thể giữ vững phong độ, đồng thời liên tục làm mới mình, bị đào thải là điều tất yếu. Điều này thúc ép các nghệ sĩ phải liên tục cho ra album, single mới, đồng nghĩa với làm việc không ngừng nghỉ.
 
Nguyên nhân thứ hai cũng khá quan trọng, đó là vấn đề live của ca sĩ. Chỉ DVD, single, các ấn phẩm điện tử thôi không đủ, việc đi tour hay tổ chức concert riêng cũng là chuyện thường xuyên. Đã mang danh nghệ sĩ, có nghĩa là hầu như phải đặt giọng hát lên hàng đầu. Chính vì vậy khi tổ chức concert, các nghệ sĩ Nhật luôn hát live 100%, điều này khẳng định đẳng cấp và cũng thể hiện sự tôn trọng khán giả, nhưng nếu làm việc không điều độ, rất có thể nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi.
 
Cuối cùng chính là do bản thân các nghệ sĩ. Dù sao với hai nguyên nhân kể trên, các staff và manager của họ chắc chắn phải biết cách điều chỉnh lịch làm việc cũng như chế độ nghỉ ngơi, ăn uống cho phù hợp. Tuy nhiên, nếu bản thân nghệ sĩ quá đam mê công việc, dù là ai cũng không thể cản họ. Vì đam mê cháy bỏng với rock, Yoshiki ( X Japan ) đã chơi trống một cách hoang dại đến mức mà sau này, anh thường xuyên phải đeo một cái nẹp cố định cổ. Cô nàng Matsui Jurina ( SKE48 ) thì một dạo làm fan suýt phát hoảng vì sự sút cân nhanh chóng do ham mê tập luyện và không chịu ăn uống đúng cách, thậm chí có lần cô đã bị ngất và phải nhập viện. Giọng hát của Kaori Mochida ( Every Little Thing ) ngày càng xuống dốc do cô liên tục sử dụng cách hát gây tổn thương mạnh đến họng của mình.
 
J-pop artist , cái giá phải trả cho sự thành công
Dù cổ bị chấn thương, Yoshiki vẫn bùng cháy với âm nhạc
Tóm lại, đằng sau những sản phẩm âm nhạc đẹp đẽ, sâu lắng, làm lay động con tim của hàng triệu khán giả là những giọt mồ hôi và những tổn thương của người nghệ sĩ.  Đúng vậy, con đường dẫn đến thành công chẳng bao giờ trải đầy hoa hồng , và đối với các nghệ sĩ Nhật Bản, có thể chỉ toàn là gai nhọn, nhưng vì niềm đam mê và tình yêu âm nhạc, họ vẫn không bao giờ nản chí. Có lẽ đối với họ, được khán giả đón nhận và cảm thụ âm nhạc của mình bằng cả trái tim đã là một niềm hạnh phúc lớn lao, mà chúng ta có thể sẽ chẳng bao giờ hiểu được.
P/s: đây chỉ là một bài tản mạn được mình viết ra vào một lúc hứng chí, chẳng nhằm mục đích gì. Phần nguyên nhân hoàn toàn là đánh giá chủ quan của mình, độ chính xác thì tùy mọi người kiểm chứng. 

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Shakuhachi – tiếng sáo tâm linh


Shakuhachi - tiếng sáo tâm linh

Giới thiệu

Shakuhachi (尺八, Xích Bát ) là tên gọi môt loại sáo thổi dọc của Nhật Bản. Nó được truyền bá từ Trung Quốc vào Nhật Bản ở thế kỉ 16 và thật sự được biết tới vào thời kì Edo. Trước kia shakuhachi thường được làm bằng đốt tre, nhưng giờ đây người ta còn có thể làm shakuhachi bằng ABS ( nhựa tổng hợp ) hoặc gỗ.
Thời xưa sáo shakuhachi được sử dụng trong âm nhạc thiền định. Ngày nay nhờ âm thanh ngọt sắc, vui tươi nên shakuhachi thường xuyên được áp dụng trong nhạc pop thời kì những năm 2000 tới nay.

Tổng quát

Cái tên Shakuhachi có nghĩa là 1.8 thước.

  • Shaku (尺 – Xích ( Thước )): là một đơn vị đo chiều dài tương đương với 30.3 cm
  • Hachi (八 – Bát ): có nghĩa là tám
Tóm lại, Shakuhachi có nghĩa là 1.8 thước ( khoảng 55 cm ), tương đương với chiều dài chuẩn của một cây shakuhachi. Tuy nhiên, tùy từng loại mà chiều dài Shakuhachi có thể dao động từ 1.3 đến 3.3 thước.

Lịch sử

Sáo shakuhachi được du nhập vào Nhật Bản từ thế kỉ 16.
Trong thời kì phong kiến, shakuhachi đóng vai trò quan trọng trong việc tu hành của các nhà sư thuộc tông phái Fuke Zen – một tông phái trong Thiền tông Nhật Bản( Zen ). Các nhà sư này được gọi là Komuso (虚無僧- hư vô tăng ). Các khúc nhạc shakuhachi của họ ( được gọi là honkyoku ) được chơi như một cách thiền bằng hơi thở ( Suizen, 吹禅 – Xuy Thiền ), đồng thời cũng khắc họa rõ âm nhạc Thiền tông Nhật Bản thời bấy giờ.
Vào thời kì đó, các shogun không cho phép việc du lịch toàn lãnh thổ Nhật Bản. Nhưng vì việc tu hành của các nhà sư Fuke Zen cần phải đi nhiều nơi, nên họ đã xin phép các shogun cho họ quyền đi lại và chơi nhạc. Để đổi lại, nhiều shogun yêu cầu các nhà sư phải trở thành gián điệp cho họ, đồng thời cũng cử đi nhiều gián điệp đóng giả làm nhà sư. Điều này thực hiện rất dễ dàng bởi các nhà sư Fuke lúc nào cũng đội trên đầu một cái giỏ che kín mặt, thể hiện sự tĩnh tại trước thế giới bên ngoài.
Rất nhiều khúc nhạc khó đã ra đời vì việc này, ví dụ như Shika no tone. Nếu bạn chơi được bản nhạc này, thì bạn đích thực là một Fuke, nếu không thì rõ ràng bạn là một tên gián điệp, và có thể bị giết khi ở lãnh địa của địch.
Trong thời kì Duy Tân Minh Trị, bắt đầu từ 1868, các shogun bị thủ tiêu, điều này dẫn đến sự diệt vong của Thiền phái Fuke. Shakuhachi bị cấm trong vài năm. Tuy các dòng nhạc cổ truyền khác không bị ảnh hưởng, nhưng những bản honkyoku cùng với nhiều tài liệu quan trọng đã thất truyền trong thời kì này. 

Sau đó, chính phủ Minh Trị đã bác bỏ lệnh cấm đối với Shakuhachi. Các bản Honkyoku từ đó được chơi công khai cho đến ngày nay. 
Shakuhachi - tiếng sáo tâm linh

Shakuhachi trong âm nhạc hiện đại

Dù thỉnh thoảng shakuhachi được coi là loại nhạc cụ cổ và lỗi thời ở Nhật Bản, nhưng ở nước ngoài cây sáo này vẫn khá nổi tiếng.
Âm nhạc trình diễn của Shakuhachi được chia làm ba thể loại:
  • Honkyoku: nhạc cổ truyền, độc tấu
  • Sankyoku: tam tấu, cùng với shamisen và koto
  • Shinkyoku: loại hình âm nhạc mới dành cho shakuhachi và koto. Ảnh hưởng từ âm nhạc phương Tây thời hậu Minh Trị.
Shakuhachi được sử dụng trong khá nhiều nhạc phim của điện ảnh Holywood, như các phim The karate kid phần II và III ( không phải phim có Thành Long đóng đâu :v ), Legends of the fall, Brave heart, hai phần Jurassic park, The Last Samurai và Memoirs of a Geisha.

Trong nhạc Nhật ngày nay, Shakuhachi vẫn có vị thế rất riêng. Với âm thanh gọn gàng, tinh tế, mang âm hưởng Thiền Tông và Thần Đạo Nhật Bản, cùng độ tùy biến rất cao, Shakuhachi được áp dụng trong rất nhiều dòng nhạc. Với âm vực rộng, người thổi Shakuhachi có thể chơi được bất kì dòng nhạc nào mình thích, từ âm nhạc Thiền tông; âm nhạc trình diễn kết hợp cùng shamisen, koto, biwa đến nhạc dân gian đương đại, jazz và nhiều dòng nhạc hiện đại khác.
___

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014


Sanshin ((三線, có nghĩa là “ 3 dây “ ) là một nhạc cụ đặc trưng ở quần đảo Okinawa, Nhật Bản. Cấu tạo của sanshin gồm có thân đàn được bọc da rắn, cần đàn và 3 dây đàn.
ĐÀN SANSHIN - TINH TÚY CỦA ÂM NHẠC MIỀN BIỂN NHẬT BẢN
Sanshin có nguồn gốc từ cây đàn Sanxian của Trung Quốc. Nguồn gốc đàn Sanshin ở Nhật Bản là từ vương quốc Ryukyu ( tên gọi của Okinawa trước kia ), nơi này có quan hệ hữu hảo với nước láng giềng Trung Hoa. Vào thế kỉ 16, đàn Sanshin du nhập vào một cảng ở Sakai, Osaka. Ở lục địa chính của Nhật, cây đàn đã dần dần được biến tấu thành đàn shamisen.

Thân đàn sanshin được bọc bằng da trăn, cần đàn được làm bằng trúc đỡ lấy 3 dây đàn.Tên của 3 dây đàn trong tiếng Okinawa xét theo độ dày lần lượt là uujiru (男絃, “nam huyền”), nakajiru (中絃, “trung huyền”), và miijiru (女絃, “nữ huyền”).
Thông thường khi chơi, người chơi sẽ cầm một miếng gảy làm từ sừng trâu nước, tuy nhiên ngày nay, rất nhiều người sử dụng miếng gảy guitar hoặc móng giả để chơi sanshin.

Vào thế chiến thứ hai, nhiều người Okinawa đã sử dụng vỏ lon để làm thân đàn sanshin, những cây sanshin đó được gọi là “ kan kara sanshin “.
ĐÀN SANSHIN - TINH TÚY CỦA ÂM NHẠC MIỀN BIỂN NHẬT BẢN
ĐÀN SANSHIN - TINH TÚY CỦA ÂM NHẠC MIỀN BIỂN NHẬT BẢN
Trong âm nhạc, sanshin chủ yếu dùng để đệm và chơi solo intro cho những bài hát mang âm hưởng của biển. Tiếng đàn sanshin đơn âm nhưng đầy trong trẻo, chứa đựng tất cả những phong vị của biển, cát, nắng và gió. Có thể nói, sanshin chính là một phần linh hồn không thể thiếu của âm nhạc, cũng như con người vùng biển Okinawa.
Trong nền âm nhạc Nhật Bản hiện giờ, các bài hát shima-uta, cũng như cây đàn sanshin sử dụng trong dòng nhạc này, không phải quá nổi bật. Tuy nhiên chúng vẫn luôn giữ được vị trí riêng trong lòng khán giả.
__

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

ĐÀN KOTO

Đàn Koto (琴 hoặc 筝) là một loại nhạc cụ truyền thống của Nhật Bản, nó tương tự như đàn guzheng của Trung Quốc. Đàn Koto được xem là nhạc cụ dân tộc của nước Nhật. Koto có chiều rộng khoảng 180 cm và được làm từ gỗ kiri .Nó có 13 dây được nối vào 13 con chắn có thể dịch chuyển dọc theo chiều rộng của thân đàn. Người chơi có thể điều chỉnh cường độ âm tiết của đàn trước khi sử dụng bằng cách di chuyển các con chặn này. Thông thường, người chơi đàn Koto sẽ sử dụng ba ngón tay (đầu ngón tay cái, ngón trỏ và ngón giữa) để gảy đàn.
ĐÀN KOTO
Đàn koto được phát minh vào đầu thế kỷ thứ 5 và trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 8, đàn Koto lần đầu tiên được truyền bá đến Nhật Bản từ Trung Quốc. Loại nhạc cụ này được sử dụng rất phổ biến trong khắp khu vực Châu Á, dưới nhiều hình thái khác nhau: Đàn Koto ở Nhật Bản là một phiên bản biến tấu từ đàn Qin, tại Hàn Quốc nó là tổ tiên của loại đàn gayageum và được gọi là Đàn Tranh tại Việt Nam. Loại nhạc cụ đa dạng này được phân làm hai chủng loại lớn, dạng đàn có con chặn và dạng đàn không có con chặn.

Từ thời xa xưa ở Nhật Bản, đàn Koto đã được coi là loại nhạc cụ dành cho giới thượng lưu, rất hay được sử dụng trong các bữa yến tiệc cung đình. Cây đàn này cũng được xem là nhạc cụ lãng mạn nhất trong các loại nhạc cụ truyền thống của Nhật Bản. Trong tác phẩm nổi tiếng “ Genji no monogatari”, nhân vật chính Genji đã mang lòng yêu da diết một người phụ nữ bí ẩn, người mà anh chưa bao giờ được gặp mặt mà chỉ được nghe qua một lần tiếng đàn koto của cô.

Đến ngày hôm nay, âm nhạc của đàn koto đã trải qua rất nhiều cải biến dưới tay các nghệ sĩ nổi tiếng. Có lẽ người có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của đàn Koto là ông Yatsuhashi Kengyo (1614-1685). Ông là một nhạc sĩ mù tài năng sống tại Kyoto, người thay đổi giới hạn phối âm của đàn từ sáu âm tiết sang một phong cách hoàn toàn mới mà ông đặt tên là Uta Kumi. Và vì thế mà ngày nay, người ta gọi Yatsuhashi Kengyo là “Cha đẻ của đàn Koto hiện đại”.

Vào đầu thời kỳ Minh Trị (1868-1912), âm nhạc phương Tây du nhập vào Nhật Bản. Michio Miyagi (1894-1956), một nghệ sĩ mù nhưng rất sáng tạo, được xem là nhạc sĩ Nhật Bản đầu tiên kết hợp âm nhạc phương Tây với âm nhạc truyền thống của đàn koto. Miyagi được mọi người quí trọng vì ông đã có công tái sinh lại âm nhạc koto khi mà nghệ thuật truyền thống Nhật Bản đã bị lãng quên và thay thế cho nó là luồng tư tưởng phương Tây. Kể từ sau thời đại của Miyagi, nhiều nhà soạn nhạc khác như Tadao Sawai (1937-1997) đã viết và trình diễn các tác phẩm để tiếp tục phát triển loại nhạc cụ này.

ĐÀN KOTO


Thời nay, tuy đàn koto không còn có vị thế mạnh mẽ như trước, nhưng âm thanh sắc lạnh, trong và sáng của cây đàn này vẫn thường xuyên được sử dụng trong âm nhạc dân gian Nhật Bản. Không những thế, tiếng đàn koto còn tiếp tục được kết hợp với âm nhạc phương Tây để tạo ra nhiều dòng nhạc mới khác. Có thể nói, sự lãng mạn của cây đàn này cực kì phù hợp với những bản pop hay rock ballad buồn day dứt. Tiêu biểu cho sự kết hợp này là hai band nhạc Kagrra và Rin’ của Nhật. Kagrra đã đưa yếu tố truyền thống vào những bản rock của mình, tạo ra những bản nhạc vừa tinh tế mà cũng rất bi hùng. Band nhạc rin’ nổi tiếng bởi sự kết hợp giữa pop hiện đại và nhạc cụ truyền thống Nhật Bản, các thành viên trong band đều là những nghệ sĩ chơi jushichi-gen ( đàn koto có 17 dây ) nổi tiếng. Band nhạc Queen của Anh cũng đã sử dụng tiếng đàn koto trong bài hát “ The Prophet’s song “. 

Nagori yuki – Tuyết muộn

Tuyết muộn, chính là những bông tuyết rơi vào một sớm mùa xuân ấm áp. Cái lạnh se se, cái màu trắng tinh khôi trong ánh nắng ấy đã khắc sâu vào trái tim một người con trai, người mà sắp phải chia tay cô bạn thân từ thuở thiếu thời. Những xúc cảm thầm kín, những suy nghĩ vẩn vơ của một mối tình chưa nói, tất cả đều được khắc họa trong bài hát này.

“Nagori-Yuki” là một bài hát do Ise Shouzo (伊勢正三) – một thành viên của band nhạc Kaguya-hime sáng tác và viết lời.
Nagori yuki - Tuyết muộn
Khái quát
Năm 1974, Nagori-yuki được phát hành dưới danh nghĩa một ca khúc trong album Sandaitate no uta của Kaguya-hime. Đồng thời, vào tháng 8 năm ấy, Nagori-yuki được biểu diễn lần đầu tiên trong concert hợp tác giữa Kaguya-hime và Yoshida Takurou “ Intsuma Koi “.
Tuy bối cảnh trong bài hát là một nhà ga ở Tokyo, nhưng thực chất Ise đã lấy ý tưởng từ nhà ga Tsukumi ở thị trấn Tsukumi – huyện Ooita, cũng chính là quê hương ông.
Năm 2002,  dựa trên cảm nhận của mình về bài  hát, đạo diễn Nobuhiko Obayashi đã khởi quay bộ phim cùng tên.
Nagori-yuki đứng ở vị trí thứ 18 trong danh sách các bài hát yêu thích trong Kouhaku uta gassen lần thứ 56.
Bản cover của Iruka
Năm 1975, Nagori-yuki được phát hành với tư cách là một cover single của ca sĩ Iruka. Đĩa đơn này đã lập kỉ lục của Oricon tại thời điểm đó với lượng bán ra gần 550.000 bản, tổng doanh thu tính tới thời điểm này là khoảng 800.000 bản, trở thành một hit tạo nên tên tuổi của Iruka.
Self cover
Sau này, Ise Shouzo đã self cover bài hát của chính mình dưới dạng đĩa đơn và Nagori yuki phiên bản mới này đã được dùng làm soundtrack cho bộ phim cùng tên năm 2002.
Các bản cover khác
  • 1976 Shimizu Yukiko( hát trong cuộc thi “ Talent Tanjou “ lần thứ 16 của đài NTV )
  • 1978 Beauty pair( trong album “ Star my selection Series” )
  • 1982 Matsuo Kumiko( hát trong “ Talent Tanjou “ lần thứ 42 )
  • 1990 Fukuyama Masaharu ( cover theo hình thức CM – quảng cáo )
  • 1992 Mi-Ke
  • 1994 Miyuki Nagai
  • 1998 Suzuki Masami( album “ Ichigo hakusho wo mou ichido” )
  • 1999LIFE RECODERS ( album “ Tokyo no sora “ )
  • 1999 Yuuki Hiro
  • 2000 Yasuyuki Okamura( album “ Yonakachuu no cycling “ )
  • 2001 Nanao incense ( album “ Hajimari no uta “ )
  • 2001 Ichii Sayaka(album ” FOLK SONGS “ )
  • 2003 Billiken
  • 2003 JINDOU
  • 2004 Matsuura Aya(album ” FS5 – Sotsugyou” )
  • 2004 Ketchup Mania( album “ GAL ban “ “ The best of Ketchup Mania “ )
  • 2005 Takahashi Naozumi( album “ scene〜 Nokoshita fuukyou “ )
  • 2005 Ayaka Hirahara( album “ From to “ )
  • 2005 Hitomi Ishikawa( album “ With Minna no Ichigo ichie FOLK SONGS “ )
  • 2006 Tokunaga Hideaki(album ” VOCALIST 2 “ )
  • 2006 MUCC ( album “ COVER PARADE “ )
  • 2006 Kamizono Sayaka( album “ Hatachi no genten “ )
  • 2006 Kamon Tatsuo
  • 2007 Kat McDowell( trong mini album “ Kat “ )
  • 2007 Ryu Si Won( trong single “ Hana no kubikazari “ )
  • 2007 Natsukawa Rimi( trong album “ Uta sagashi _ Request cover album “ )
  • 2008 Atari Kosuke( single “ Haru “ )
  • 2008 Ameji( Album “LOVE STORIES”)
  • 2008 Onitsuka Chihiro( trong live DVD “NINE DIRTS AND SNOW WHITE FLICKERS”)
  • 2009 Sakamoto Fuyumi ( Album “ LOVE SONGS _ Mata kimi ni koishiteiru_ )
  • 2009 Scott Murphy( Album  “GUILTY PLEASURES LOVE”)
  • 2009 Nakanishi Yasushi( Album “Melodies”)
  • 2009 Nakamori Akina
  • 2010 Hajime Chitose& Motohiro Hata ( cover theo hình thức CM )
  • 2012 Kawamura Ryuichi( Album “ The Voice 2 “ )
  • 2013 Ariyasu Momoka( Momoiro Clover Z ) ft. Minami Kousetsu ( Album ” 5TH DIMENSION )

Lyric

kisha o matsu kimi no yoko de

boku wa tokei o kinishiteru
kisetsu hazure no yuki ga futteru
tokyo de miru yuki wa kore ga saigo ne to
samishisou ni kimi wa tsubuyaku
nagori yuki mo furu toki o shiri
fuzake sugita kisetsu no ato de
ima haru ga kite kimi wa kirei ni natta
kyonen yori zutto kirei ni nattaugoki hajimeta kisha no mado ni
kao o tsuke te
kimi wa nanika o iou to shiteiru
kimi no kuchibiru ga sayonara to ugoku koto  ga
kowakute shita o muiteta
toki ga yukeba osanai kimi mo
otona ni naru to kizukanai mama
ima hru ga kite kimi wa kirei ni natta
kyonen yori zutto kirei ni nattakimi ga satta home ni nokori
ochite wa tokeru yuki o miteita
ima haru ga kite kimi wa kirei ni nattakyonen yori zutto kirei ni natta
__
Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Toki wo kakeru shoujo - Cô gái vượt thời gian

Thông tin

Toki wo kakeru shoujo là bài hát được Matotsuya Yumi sáng tác làm nhạc nền cho bộ phim cùng tên sản xuất vào năm 1983, được thể hiện dưới giọng hát trong trẻo của Harada Tomoyo.
 
Nhắc đến phim thì mình cũng xin nói luôn là bộ phim Toki wo kakeru shoujo là tác phẩm được chuyển thể theo tiểu thuyết cùng tên rất nổi tiếng, xuất bản vào năm 1967 của nhà văn Yasutaka Tsutsui. Tổng cộng có 10 bộ phim được chuyển thể theo cuốn tiểu thuyết này, trong đó 2 phiên bản phim gần đây nhất là anime The girl who leapt throught time ( 2006 ) và live action Time Traveller: the girl who leapt through time ( 2010 ) do diễn viên trẻ Naka Riisa thủ vai chính ( thực ra cô cũng chính là seiyuu của nhân vật Konno Makoto trong anime năm 2006 ).
Bài hát toki wo kakeru shoujo không được sử dụng lại trong anime, nhưng trong live action năm 2010 thì nó đã được cover lại theo phong cách mới mẻ hơn bởi band nhạc Ikimono gakari.
Nếu các bạn để ý thì bài hát này vẫn thường xuyên được nhắc đến trong anime, manga.

Lyric

Anata watashi no moto kara
Totsuzen’ kietari shinai de ne
Nido to wa aenai basho he
Hitori de ikanai to chikatte
Watashi wa watashi wa samayoi hito ni naru
Toki wo kakeru shoujo
ai wa kagayaku fune
Kako mo mirai mo seiza mo koeru kara
Dakitomete
Yuube no yume wa kin’iro
Osanai koro ni ason’da niwa
Tatazumu anata no soba he
Hashitte yukou to suru keredo
Motsurete motsurete
Namida makura wo nurasu no                                                                                                                                                                                                
Toki wo kakeru shoujo
Sora wa uchuu no umi yo
Aseta shashin’ no anata no katawara ni
Ton’de yuku
Toki wo kakeru shoujo
ai wa kagayaku fune
Kako mo mirai mo seiza mo koeru kara
Dakitomete
__

Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Bông hoa duy nhất trên thế giới

bong hoa duy nhat tren the gioi Bông hoa duy nhất trên thế giới

Thông tin

Sekai ni hitotsu dake no hana ( Bông hoa duy nhất trên thế giới ) là một bài hát được Noriyuki Makihara sáng tác năm 2003 và trở thành một single của boyband SMAP. Single này đã bán được hơn 2.3 triệu bản và trở thành single thứ 9 bán chạy nhất Nhật Bản trong lịch sử bảng xếp hạng Oricon.
 
Cùng với ” Colors ” của Utada Hikaru, nó trở thành một trong 2 single duy nhất bán được hơn 1 triệu bản trong năm 2003, năm mà lượng đĩa bán ra ở thị trường âm nhạc Nhật sụt giảm nghiêm trọng bởi tình hình kinh tế. Từ đó, bài hát này đã trở nên nổi tiếng trên toàn Nhật Bản và cả thế giới, đồng thời cũng rất hay được hát khi đi karaoke.
Có lẽ bài hát này đã quá quen thuộc với những ai yêu thích nền văn hóa Nhật Bản. Với lời ca trong sáng, ý nghĩa, âm nhạc đơn giản nhưng rất cuốn hút, Sekai ni hitotsu dake no hana làm say mê tất cả những ai nghe nó dù chỉ một lần.
 

Lyric

Number one ni naranakutemoii
Moto moto tokubetsuna Only One Hanaya no misesaki ni naranda
Ironna hana wo mitte ita
Hito sorezore konomi wa aru kedo
Doremo minna kirei da ne
Kono naka de dare ga ichiban da nante
Arasou koto mo shinaide
Baketsu no naka hokorashige ni
Shanto mune o hatte iru
Sore na no ni bokura ningen wa
Doushite kou mo kurabetagaru ?
Hitori hitori chigau no ni sono naka de
Ichiban ni naritagaru?
Sou sa bokura wa
Sekai ni hitotsu dake no hana
Hitori hitori chigau tane wo motsu
Sono hana wo sakaseru koto dake ni
Isshoukenmei ni nareba ii
Komatta you ni warainagara
Zutto mayotteru hito ga iru
Ganbatte saita hana wa doremo
Kirei dakara shikata nai ne
Yatto mise kara dete kita
Sono hito ga kakaete ita
Irotoridori no hanataba to
Ureshisou na yokogao
Namae mo shiranakatta keredo
Ano hi boku ni egao wo kureta
Daremo kizukanai you na basho de
Saiteta hana no you ni
Sou sa bokura mo
Sekai ni hitotsu dake no hana
Hitori hitori chigau tane wo motsu
Sono hana wo sakaseru koto dake ni
Isshoukenmei ni nareba ii
Chiisai hana ya ookina hana
Hitotsu toshite onaji mono wa nai kara
Number one ni naranakutemo ii
Motomoto tokubetsu na only one
__

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

[Rock’n’Girls] FUKI ( LIGHT BRINGER )

FUKI mang đến cho ta hình ảnh về một cô công chúa xinh đẹp và quyền quý mang mái tóc bạch kim. Nhưng tâm hồn của cô công chúa ấy không bị trói buộc bởi những quy tắc mà luôn tự do, cháy hết mình với thứ âm nhạc đầy chất thép, hoang dại và mạnh mẽ.

rockngirls fuki light bringer [Rock’n’Girls] FUKI ( LIGHT BRINGER ) FUKI

Tên khác: Fuyuki, Fuyuki Tenge
Ngày sinh: 09/06
Nhóm máu: O
Sở thích: đọc sách, xem drama trinh thám, mạt chược
Kĩ năng đặc biệt: may vá
Đồ ăn yêu thích: măng, vỏ sò dây
Màu sắc yêu thích: xanh cây, da cam
Câu nói hay dùng: “ Nan no koto desu ka?” ( Đó là gì vậy? )
Ước mơ hồi bé: họa sĩ manga
Ảnh hưởng bởi: Kuroneko ( Onmyouza ), ASKA ( CHAGE & ASKA )

Bắt đầu sự nghiệp với vai trò vocalist của một số band cover nhạc Touhou như Dragon Guardian, Unlucky Morpheus, UNDEAD CORPORATION, nhưng FUKI chỉ mới thực sự được biết đến khi làm vocalist chính của band nhạc power melodic metal LIGHT BRINGER. Hiện nay cô đang hoạt động song song với vai trò vocalist trong cả hai band LIGHT BRINGER và DOLL$BOXX ( girlband kết hợp giữa cô và 3 thành viên của Gacharic Spin ).
FUKI có ngoại hình ưa nhìn và phong cách thời trang punk lolita cá tính cực kì hợp rơ với dòng nhạc cô đang theo. Cô cũng là một fan M-A chính hiệu, thường xuyên tham dự các sự kiện M-A. Với khả năng may vá của mình, hầu hết quần áo khi biểu diễn đều do cô tự may.
Về khả năng ca hát, cô nàng sở hữu một chất giọng cao, và rất khỏe… trong album studio. Vâng, chỉ trong bản thu thôi, còn khả năng live của cô phải nói là chỉ thuộc dạng… trung bình khá. Tuy nhiên, bỏ qua tất cả những điều đó, chỉ cần phong cách nổi bật cùng với tần suất xuất hiện trong các sự kiện anime, cũng đã mang đến cho FUKI một lượng fanbase không nhỏ. Thậm chí nhiều fan của DOLL$BOXX từng nói rằng họ biết đến band nhạc chỉ vì FUKI, dù các thành viên khác còn trẻ đẹp hơn cô.


__
 Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

One Ok Rock

one ok rock One Ok Rock

1.Giới thiệu:

Ban nhạc chọn cái tên ONE OK ROCK vì họ đã đặt lịch ở phòng thu vào lúc 1h. Cách phát âm tiếng Nhật từ ONE OK ROCK (ワンオクロック) là wan oku rokku nghe giống 1h.
Vào mùa hè 2005, Toru và hai người bạn thời trung học của mình là Alex và Ryota đã thành lập ban nhạc sau khi họ đã có được nhạc cụ của mình. Sau đó Taka gia nhập nhóm thì họ bắt đầu tập trung biểu diễn live ở khu vực Tokyo.
Năm 2006, họ phát hành 2 mini album độc lập. Nhờ doanh thu bán đĩa và những buổi biểu diễn ở các lễ hội và các khu vực ngoại vi Tokyo, họ đã được một công ty thu âm nước ngoài chú ý tới. Buổi biểu diễn live đầu tiên của họ mang tên One-Man đã được diễn ra ở LOFT (1 quán bar thì phải) ở quận Shinjuku với 500 khán giả.
Trước đây ban nhạc có 5 thành viên nhưng vì 1 thành viên bị dính vào 1 vụ scandal nghiêm trọng nên bây giờ chỉ còn lại 4 thành viên…Nhưng không vì thế mà mình ghét bỏ ban nhạc này…Trên con đường thành công của mình chúng ta cũng đôi lần bị vấp ngã

2.Các thành viên trong nhóm

Taka (Morita Takahiro)
one ok rock Taka Morita Takahiro One Ok Rock
Sinh ngày: 17 tháng 4, 1988 tại tokyo
Nhóm máu: A
Là Vocal chính của nhóm, có chất giọng khỏe, đẹp giai . Taka từng là thành viên của nhóm nhạc NEWS
Toru (Yamashita Toru)
one ok rock Toru Yamashita Toru One Ok Rock
Sinh ngày: 7 tháng 12, 1988 ở Osaka.
Nhóm máu: O
Là trưởng nhóm,Guitar chính và là 1 rapper chính hiệu. Toru từng là thành viên của một nhóm nhạc hip-hop dance tên là Heads
Ryota (Kohama Ryota)
one ok rock Ryota Kohama Ryota One Ok Rock
Sinh ngày: 4 tháng 9, 1989 ở Osaka.
Nhóm máu: B
Bass chính của nhóm. Ryota cũng từng ở nhóm nhạc Heads với Toru.
Tomoya (Kanki Tomoya)
one ok rock Tomoya Kanki Tomoya One Ok Rock
Sinh ngày: 27 tháng 6, 1987 ở Hyogo. 
Nhóm máu: A
Drum chính của nhóm. Anh là người thường xuyên viết blog cho One Ok Rock
Alex (Onizawa Alexander Reimon)
one ok rock Alex Onizawa Alexander Reimon One Ok Rock
Sinh ngày: 19 tháng 3, 1988 ở San Francisco
Từng là 1 tay Guitar trong nhóm cho đến năm 2009. Sau 1 vụ Scandal nhiêm trọng anh đã rời khỏi nhóm

3.Một số bài hát của nhóm

4.Lời kết

Hi vọng với phong cách rock điên cuồng và mới lạ của One Ok Rock sẽ mang lại cho các bạn những giây phúc hạnh phúc và tràng trề sức sống
__