Thứ Ba, 13 tháng 1, 2015


Enka là một thể loại nhạc Nhật nổi tiếng. Dù người ta có cần cân nhắc để xếp nó vào một kiểu âm nhạc truyền thống, nhạc enka hiện đại có liên quan đến một loại nhạc mới phát sinh ra từ khung cảnh của một sự bóp ép ngay sau chiến tranh của một loại nhạc Nhật không dùng nhạc cụ theo chủ nghĩa dân tộc như nihonjinron, trong khi chọn nhiều hơn một loại nhạc truyền thống nhiều hơn loại nhạc ryūkōka nổi tiếng vào trước chiến tranh trong nghệ thuật múa hát.
演歌 - Diễn ca - Văn hóa âm nhạc Nhật Bản Enka
Thuật ngữ “enka” được dùng để tham khảo các văn bản chính trị để sắp đặt nhạc hát và phân loại giữa hai phe đối lập nhau thuộc về Tự do và hành động đúng đắn của con người suốt thời Meiji (từ năm 1868–1912) với ý nghĩa là phớt lờ sự hạn chế của chính trị trên tốc độ bất đồng quan điểm chính trị – và trong ý thức này, từ nhận được trong từ “enzetsu no uta” (演説の歌) có nghĩa là “bài hát tốc độ”.
Nhạc enka hiện đại, đã được phát triển trong thời sau chiến tranh, là một loại nhạc ba-lê uỷ mị. Một trong các ca sĩ nhạc enka đầu tiên là Hachiro Kasuga, Michiya Mihashi và Hideo Murata. Có một học thuyết cho rằng nhạc enka hiện đại có nghĩa là “enjiru uta” (演じる歌), có nghĩa là “bài hát được trình diễn”. Thời phục hưng của nhạc enka ở dạng hiện đại bắt đầu từ một ngày vào năm 1969, khi Keiko Fuji bắt đầu trình diễn
Nguồn gốc
Văn phong: Ryūkōka • Rōkyoku • Min’yō • Tango • Blues
Văn hoá:  vào năm 1950. Cái tên bắt nguồn từ một loại nhạc vào cuối thế kỉ mười chín.
Các nhạc cụ đặc trưng: Phiên âm • Ghi – ta • Ghi – ta trống • Trống thùng • Đàn Piano • Kèn Saxophone • Kèn Trumpet • Kèn Trombone • Shamisen • Shakuhachi
Nguồn phổ biến chính: Nguồn phổ biến rộng lớn vào những ngày cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70.
Loại âm nhạc
Bài hát Nhật đầu tiên sử dụng một nhánh của nguồn nhạc Enka hiện đại gọi là “Yonanuki Tan-Onkai” (ヨナ抜き短音階) hay là “nốt nhỏ không có điểm thứ bốn và thứ bảy (re và sol)”, người ta nói đó là bài hát của Rentarō Taki, là “Kōjō no Tsuki”, còn được gọi là “shōka” (唱歌) hay “bài hát của trường” vào thời Meiji. Không có trường độ nốt thứ bảy trong bài hát B nhỏ bé “Kōjō no Tsuki”.
Nốt nhạc là một hình ảnh hỗn loạn của “Yonanuki Chō-Onkai” (ヨナ抜き長音階) hay còn gọi là “Nốt nhạc khổng lồ không có điểm thứ Bốn và thứ Bảy (fa và ti)”, bắt nguồn từ một trong những nốt nhạc trước đó của Nhật Bản, “Nốt Ryo” (呂音階 Ryo Onkai).
Âm nhạc, được hình thành dựa trên nốt nhạc, có một vài điểm giống nhau so với nhạc blue, mà đã được một ca sĩ enka người Mỹ gốc Nhật, là Jero để ý đến. Lời nhạc của enka thường là về chủ đề tình yêu và sự thất bại, cô đơn, các khó khăn lâu dài, và kiên nhẫn đối mặt với khó khăn, cho dù mình bắt buộc phải tự tử hoặc phải chết. Dù Enka là một thể loại Kayõkyoku, nó lại được xem như là rất có ý nghĩa và giàu cảm xúc, dù nó không có sự nhất trí rõ ràng trong vấn đề.
Các ca sĩ enka bình thường sử dụng một loại nhạc gọi là Kobushi. Kobushi xuất hiện khi cao độ của giọng ca sĩ dao động không đều đến trường độ nốt, được so sánh với một hiệu ứng âm nhạc, mà rung động theo một chu kỳ bình thường. Kĩ thuật Kobushi không hề giới hạn đến enka, khi bạn nghe bài hát “Sant Lucia” của Ý. Vào cuối thập niên 30 và đầu thập niên 40, nhạc của nhà soạn nhạc Masao Koga có thể bắt đầu có ảnh hưởng đến các bài tụng kinh của Phật giáo Shomyo vì yêu cầu của giải thưởng âm nhạc này đòi hỏi ông sáng tác loại nhạc này. Dù Koga trở thành một nhà soạn nhạc, làm việc để suy xét để sản sinh ra sự sáng tạo cho thể loại này, nhạc enka hiện đại hoàn toàn khác dòng nhạc đầu tiên của Koga vì kiểu hát của các ca sĩ sau chiến tranh khác xa kiểu nốt Kobushi của Koga. Một ca sĩ enka hiện đại, Takeshi Kitayama đã nói:” Tôi hoàn toàn bối rối vì âm nhạc của ông ấy [ám chỉ Koga] hoàn toàn khác ca sĩ khác”.
Nhạc enka cũng được cho là truyền thống, lý tưởng hoá,hay hướng đến tiểu thuyết hoá trong văn hoá và quan điểm của Nhật Bản. Ca sĩ enka, đa số là phụ nữ, thường hay trình diễn trong trang phục kimono, hay trong váy ngủ. Phần biểu diễn của các ca sĩ enka nam thường hướng về trang phục hình thức, hay trong một số buổi diễn, là quần áo truyền thống của Nhật. Những cách gật đầu theo truyền thống Nhật Bản thường phổ biến trong nhạc enka. Giai điệu của nhạc enka chủ yếu là hoà âm kiểu Tây, nhưng nhạc cụ bao gồm shakuhachi và shamisen, khiến nó có vẻ “Nhật” hơn.
Thể loại này được gọi là enka và cũng được nói là một sự phân loại thích hợp cho giải thưởng âm nhạc cũng như nhạc J-pop. Ví dụ, Harumi Miyako, người đã được công nhận là một ca sĩ enka, đã nói rằng:” Tôi không nghĩ rằng mình đã từng hát nhạc enka” và “Thật sự, lúc đó tôi không cảm nhận được một chút điều kiện enka nào cả khi tôi trình diễn”.
__
Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2015

Kanjani Eight, Exile, Berryz Koubou, Sadie… không chỉ được mến mộ tại xứ sở hoa anh đào, mà còn ở các nước châu Á.

Kanjani Eight

5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
Kanjani Eight là nhóm nhạc rock gồm 7 thành viên, thuộc quyền quản lý của cơ quan tài năng đa phương tiện Johnny& Associates và ký hợp đồng với hãng Imperial Records. Nhóm được thành lập từ năm 2002, nhưng lại là “mảnh ghép” của hai nhóm nhạc trước đó đã giải nghệ.
Sau năm 2006, nhờ sự sáng tạo trong phong cách âm nhạc, nhóm đã gặt hái được nhiều thành công trên con đường nghệ thuật. Bên cạnh đó, Kanjani Eight còn rất tích cực tham gia các hoạt động đa dạng trong nền công nghiệp giải trí Nhật Bản như hát nhạc phim, talk show, diễn xuất,…

Exile

5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
Exile là một nhóm nhạc trẻ gồm 14 chàng trai tài năng. Họ đều có chất giọng tốt và khả năng vũ đạo khá ổn. Vì thế, Exile không chỉ được yêu thích ở Nhật Bản mà còn các nước châu Á.
Exile đã phát hành hàng loạt album nổi tiếng, được xếp hạng cao trên Oricon (bảng xếp hạng âm nhạc châu Á danh tiếng). Nhóm còn được đề cử và dành được giải thưởng Nghệ sĩ của năm, Album nhạc rock của năm.

Berryz Koubou

5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
Berryz Koubou là nhóm nhạc hiện nay gồm 7 thành viên (một thành viên rời nhóm vào năm 2005). Nhóm hoạt động dưới sự quản lý của Hello!Project Kids trực thuộc Hello! Project và nhà sản xuất kiêm nhạc sĩ Tsunku.
Năm 2007, Berryz Koubou trở thành nhóm nhạc nữ trẻ tuổi nhất được trình diễn tại nhà thi đấu Saitama Super Arena, khi độ tuổi trung bình của các thành viên là 14 tuổi. Dù tuổi còn rất trẻ nhưng nhóm đã giành được giải thưởng danh giá Asia Newcomer Award (Nghệ sĩ mới của châu Á).

Sadie

5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
Âm nhạc bốc lửa, phong cách biểu diễn táo bạo chính là điểm làm cho Sadie được giới trẻ mến mộ. Nhóm là tập hợp của 5 chàng trai Mao, Mizuki, Tusurugi, Aki và Kie. Trong đó phải kể đến thành viên Mizuki vì anh ccũng là thành viên của nhóm nhạc huyền thoại Karasu.
Sadie được yêu mến không chỉ ở Nhật Bản, mà còn trên khắp các nước châu Á. Những album của nhóm luôn bán chạy trên 1 triệu bản, được giới chuyên môn đánh giá cao.

Nano. RIPE

5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
5 nhóm nhạc được yêu thích nhất Nhật Bản
Những anh chàng trong nhóm nhạc này luôn biết cách thay đổi hình ảnh. Sự kết hợp giữa pop và rock đã tạo ra lối đi và dấu ấn riêng cho nhóm.
Nano.Ripe đã cho phát hành ba album độc lập và những đĩa đơn mang tên Patricia,Warp Omokage, Hana no Iro… Những single của nhóm liên tục xếp đầu bảng xếp hạng Oricon. Hơn nữa, nhiều bài của nhóm còn được ưu ái chọn làm nhạc nền cho phim.
__
 Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015


[Rock’n’Girls] Shiori – Base Ball Bear
[ Lưu ý: Ảnh chỉ mang tính chất ảo diệu ] 
Thành viên nữ duy nhất của Base Ball Bear. Với ngoại hình dễ thương và giọng hát ngọt ngào, mình đã ngay lập tức fall in love khi lần đầu tiên thấy chị xuất hiện trong MV. ( Shiori có hát đó, mỗi tội là back vocal :’( )
Về khả năng chơi bass thì mình tai trâu nên nghe không biết hay dở thế nào, nhưng nghe nói Shiori chỉ mới tập chơi bass từ khi band được thành lập. 

Tên thật: Sekine Shiori
Biệt danh: Shiori-chan, hoa hậu Sekine
Ngày sinh: 8/12/1985
Quê quán: Saitama-ken
Nhóm máu: B
Vị trí: bass, back vocal
Hâm mộ: Jethro Tull, Carvan, Suzuki Keiichi, YUI và GO!GO!7188
Nhạc cụ:
– Fender USA Precision Bass
– Fender Mustang Bass
– Freedom Custom Guitar Research JB
– Gibson SG
– Fender Japan Jazz Bass đỏ
Fact
– Shiori thường xuyên sử dụng kĩ thuật down picking do bị ảnh hưởng bởi Nakao Kentarou của Number Girl. Hơn nữa, cô không chơi finger picking để tạo ra âm thanh nam tính.
– Từng đóng vai cô nàng bassist Nozomi trong phim điện ảnh Linda Linda Linda. Sau khi bộ phim đóng máy, cô đã trở thành bạn thân với Kashii Yuu và Maeda Aki.
– Là fan của nhà làm phim hoạt hình cộng hòa Séc Zdenek Miller, sở hữu các bộ DVD, tranh vẽ và trang phục cosplay các nhân vật của ông.
– Từ đống đĩa chuẩn bị thanh lý của hãng EMI, cô đã tình cờ tìm thấy best album của Jethro Tull và trở nên say mê Progessive Rock. Hiện tại cô không chỉ sưu tập đĩa của Mĩ mà còn có đĩa của các prog rock band châu Âu. Đặc biệt cô rất thích các prog band Italia như Canterbury Rock, Caravan và PFM.
– Do bị ảnh hưởng từ phong cách biểu diễn Flamingo của Ian Anderson ( Jethro Tull ), sau này cô thường có thói quen co một chân trên sâu khấu.
– Gia nhập Base Ball Bear với vị trí keyboard nhưng sau đó đã chuyển hướng sang chơi bass.
– Cô tuyên bố sẽ kết hôn vào ngày 14/02/2012 trong chuyên mục Bebobe LOCKS của chương trình radio SCHOOL OF LOCK!. Là thành viên duy nhất của band nhạc đã kết hôn.
– Trong anime Angel Beats!, cô nàng bassist của nhóm nhạc Girl Dead Monsters được đặt tên dựa theo tên cô.
[Rock’n’Girls] Shiori – Base Ball Bear
Sekine Shiori trong Angel Beats

__
 Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Thứ Tư, 7 tháng 1, 2015


1. Nico Nico Douga là gì?
Là trang mạng xã hội chia sẻ video hàng đầu ở Nhật.
Nếu bạn nghĩ ” vậy thì khác quái gì youtube đâu ” thì bạn lầm to, nico nico douga là một ổ toàn quái vật, nếu chịu khó tìm kiếm bạn sẽ thấy trên nico đầy rẫy những nico-er vỉa guitar, phang drum, oánh bass hay hát lại các bài hát M-A  điêu luyện không kém gì các nghệ sĩ thực thụ.
Nico Nico Douga - Mạng xã hội hàng đầu ở Nhật.
2. Utaite là gì? 
Nico singer, hay còn gọi là Utaite, là những người chuyên cover lại những bài hát và up lên trang nico nico douga, vậy nên nếu bạn có 1 acc nico douga, bạn cover lại nhạc và up lên trang nico thì bạn cũng được gọi là nico singer luôn.
Hầu như gần 100% nico singer có cover nhạc vocaloid, một số người vừa là nico singer vừa là vocaloid Producer luôn ( VD: Tourai hoặc Kouhei )
Hàng tuần sẽ có update utatte ranking, gồm những bài cover mới được up lên và đứng top trong tuần đó, có cả cover nhạc khác nhưng chủ yếu vẫn là vocaloid
Nói vậy đủ rồi, bây giờ mời các bạn chuyển xuống post dưới để chúng ta bắt đầu nhé 
Nico Nico Douga - Mạng xã hội hàng đầu ở Nhật.
3. Utattemita
Utattemita (歌っ て みた) là một subcategory của Yattemita (やっ て みた) trong Nico Nico Douga. Utattemita nghĩa đen có nghĩa là “hát thử”, đó là lý do tại sao bạn sẽ thấy rằng hầu hết các cover nhạc đều trình bày theo kiểu này “[tên ca khúc chủ đề] を 歌っ て みた “(hoặc hao hao thế). Chính xác hơn thì các loại utattemita là nơi mà các ca sĩ nghiệp dư tải lên các bài hát mà mình cover lại.
* Yattemita (thử làm) là một phần của Nico Nico Douga, nơi mọi người tải lên các video của họ “thử làm gì đó”. Hiện tại trong phần này: gồm có utattemita (hát thử), odottemita (nhảy thử), egaitemita (vẽ thử), ensoushitemita (chơi thử nhạc cụ), và nico nico gijutsu-bu (khu về art và công nghê).
* Utattemita (歌っ て みた) khác Awasetemita (合わせ て みた) , awasetemita là một hỗn hợp của cùng 1 cover – nhiều Utaite hát được lồng vào nhau. Vì vậy nó không phải bản được tải lên chính thức của ca sĩ. Thay vào đó, một ai khác đã lấy nhiều bản cover lại mà mix chúng vào với nhau để nghe giống như 1 dàn chorus, thật ra bạn nghe mấy bản này sẽ thấy các ca sĩ hát loạn xạ cả lên, không giống một chorus tí nào vì ai cũng có những điểm riêng trong những bài cover của mình trong khi bắt buộc trong 1 dàn chorus là mọi người phải hát hòa hợp với nhau từ tốc độ, cao độ và cả trường âm nữa. Nico singer thì mỗi người ở 1 nơi rải rác khắp nước Nhật nên chỉ có những dịp đặc biệt như Nico daikagi mới tập hợp được nhiều người lại, bình thường việc lập 1 chorus là khá khó, nhất là chorus với những nico singer nổi tiếng , nên nếu bạn lên youtube hay nico douga mà thấy bài nào quy tụ nhiều nico singer nổi tiếng thì nhiều khả năng đó là Awasetemita đấy.
__
 Yêu Nhật Bản - Nhạc Nhật Bản

Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015

Sky restaurant – Nhà hàng trên không


Sky restaurant  là single thứ 4 của chorus group Hifi-set, phát hành vào 05/11/1975. Phần lời của bài hát được lấy từ lời ca khúc “ Ano hi ni kaeritai “ của Matsutoya Yumi. 

Sky restaurant - Nhà hàng trên không

Khái quát

Một ca khúc nhạc nhẹ nhàng và sâu lắng. Giai điệu smooth jazz kết hợp với giọng hát sâu và quyến rũ của Yamamoto Junko càng làm cho bài hát thêm phần êm dịu. Cách hát đầy cảm xúc của Junko cũng phần nào thể hiện được thể loại mood-kayo của bài hát này.
Cũng giống như các ca khúc kayokyoku cùng thời, nội dung lời bài hát không quá nặng nề, buồn bã nhưng vẫn để lại cho người nghe những xúc cảm sâu sắc. Bài hát khắc họa cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa một người phụ nữ với người đàn ông mà cô yêu- nhưng lại không thể ở bên anh, một câu chuyện tình với đủ các sắc thái tâm trạng yêu thương, mê đắm, buồn bã mà chắc chắn khi đã nghe một lần sẽ không thể nào quên.

Lyric

街灯り指でたどるの
夕闇に染まるガラスに
二人して食事に来たけど
誘われたわけはきかない
なつかしい電話の声に
出がけには髪を洗った
この店でさよならすること
わかっていたのに
もしここに彼女が来たって
席を立つ つもりはないわ
誰よりもあなたのことは
知っているわたしでいたい
長いこと会わないうちに
あなたへのうらみも消えた
今だけは彼女を忘れて
わたしを見つめて
なつかしい電話の声に
出がけには髪を洗った
今だけは彼女を忘れてわたしを見つめて
わたしを見つめて

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

22 sai no wakare – Chia tay lúc tuổi 22

22 sai no wakare là bài hát nằm trong single debut của band nhạc Kaze – một band nhạc nổi tiếng Nhật Bản vào thập niên 70.
Single này được Nippon crown phát hành vào ngày 5/2/1975.
22 sai no wakare - Chia tay lúc tuổi 22
Khái quát
22 sai no wakare vốn là một trong hai ca khúc mà Shouzou Ise viết để đưa vào album năm 1974 của nhóm Kaguyahime ( mà ông là thành viên ) – “ Sandaitate no uta “. Nhưng sau đó do bị yêu cầu phải cắt bớt bài hát, nên 22 sai no wakare đã được giữ lại và sau này được đưa vào album Kaguyahime LIVE. Cuối cùng bài hát này không trở thành một single của Kaguyahime.
Sau khi Kaguyahime tan rã, 22 sai no wakare đã trở thành single debut của Kaze – band nhạc mới của Shouzo Ise. Chính lúc đó, bài hát này đã trở thành hit, doanh thu đạt đến mức million seller ( từ 1 triệu bản trở lên ). Dựa theo oricon chart thì vào thời điểm đó single này bán được 708.000 bản, đứng thứ 7 ở bảng xếp hạng oricon.
Vào năm 1984, bài hát được chọn làm ending theme cho bộ phim “ Kyou, kanashibetsu de “ do Kuramoto Satoshi đạo diễn.
Năm 2005, 22 sai no wakare đứng thứ 71 trong “ Bảng xếp hạng bài hát Kouhaku yêu thích “ của đài NHK.
Năm 2006, một bộ phim tình cảm “ 22 sai no wakare lycoris hamizu hanamizu monogatari “ ( đạo diễn Oubayashi Nobuhiko ) đã được sản xuất dựa trên bài hát này, và được công chiếu vào hè năm 2007.

Danh sách các ca sĩ đã cover lại bài hát này
  •          Murashita Kouzou
  •          Da Capo
  •          Suzuki Masami  ( Album “ Ichigo hakusho mou ichido” )
  •          Kamon Tatsuo ( cover  thành bài “ 22 sai no moto kare “ dưới dạng parody, trong album “ Kotoba no chikara!” )
  •          Yasuda Kei – Yaguchi Mari ( album “ FOLK SONGS 4 “ )
  •          Nakamori Akina  ( album “ Folk songs, Uta hime jojouka “ )
  •          Fukuyama Masaharu ( cover lại trong chương trình radio của bản thân “ Oni radio” )
  •          Okahira Kenji ( Album “ I <3 GM “ )
  •          Me First and the Gimme Gimmes ( Album “ Sing in Japanese “ )
  •          Yoshi Ikuzou
  •          Shibata Jun ( Album “ COVER’s 70s “ )

Phụ lục
Đây là lời tâm sự của Shouzo Ise – tác giả bài hát
 Ngược lại, “22 sai no wakare” lại được viết có tính toán. Thực ra, hai ca khúc này ở trong cùng một album. Đó là album “Sandaitate no uta” năm 1974. Tôi đã viết chúng cho album này. Đầu tiên là Nagori yuki, sau đó là thu âm một bài hát khác ( ý là không phải bài 22 sai no wakare ). Nhưng, tự nhiên tôi lại cảm thấy không ổn. Có cảm giác     “ Cái này không bán được rồi “. Chính vì vậy, tôi đã xin thêm thời gian một ngày nữa. Ngày hôm đó, trở về nhà, tôi quyết tâm sáng tác một bài hát bán chạy. Sau đó, tôi đã thức trắng đêm sáng tác ra “ 22 sai no wakare”. Vì thế, “Nagori yuki” là tác phẩm được sáng tác bất chợt từ thế giới riêng mà tôi ưa thích, còn “ 22 sai no wakare “ lại là bài hát được chủ định sáng tác để trở thành hit. 
Bài hát
Sau đây là bản gốc ” 22 sai no wakare ” và một vài bản cover mà mình thích